Cam kết - phi cam kết: chính sách của Mỹ về “vấn đề Việt Nam” và những ngày cuối cùng của chính quyền Sài Gòn

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng hào hùng, vẻ vang của dân tộc ta. Tự hào nhìn lại bước đường đấu tranh cách mạng lâu dài và oanh liệt mà nhân dân ta đã vượt qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cổng thông tin Điện tử ĐHQGHN trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Văn Kim – Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN nhân kỷ niệm 43 năm ngày chiến thắng lịch sử 30-4-1975.

1. Tìm kiếm và lựa chọn giải pháp 

Sau sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968, thế và lực của các bên tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản. Sự thất bại liên tiếp của các chiến lược chiến tranh đã khiến cho chính quyền Mỹ phải suy tính đến khả năng từng bước rút quân ra khỏi Việt Nam trong “danh dự”. 

Thực tế lịch sử cho thấy, trên cơ sở những thành quả trong các chiến dịch mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, cũng như thắng lợi trong cuộc chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Trung ương Đảng ta đã sớm dự tính đến khả năng mở một thế trận mới với phương châm: “Vừa đánh, vừa đàm”. Tuy nhiên, tình hình chính trị trong nước và quốc tế chưa bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện khả năng này. Đến năm 1967, Hội nghị BCHTW lần thứ 13 họp từ 23-26 tháng Giêng đã đề ra chủ trương đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao chống Mỹ. Nghị quyết số 155-NQ/TW Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân tanhận định: “trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động. Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng lúc”. Từ đó, cùng với chính trị và quân sự, ngoại giao chính thức được coi là một mặt trận trọng yếu, có ý nghĩa chiến lượcgóp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Quyết định đó đã mở ra cục diện mới cho đấu tranh ngoại giao với mục tiêu cơ bản ban đầu là đòi Mỹ phải chấm dứt vô điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây chính là sự khởi đầu cho hàng loạt những cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 13. Trước thái độ của ta, ngày 8-2-1967, Tổng thống Mỹ Lyndon Baines Johnson đã gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo việc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc có điều kiện. Theo chỉ đạo của Người, chúng ta đã “trả lời công khai trên báo chí để làm cho Johnson càng lúng túng và nếu đưa tin Johnson gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn càng hoang mang”.

Song song với hoạt động ngoại giao, trên chiến trường miền Nam, các lực lượng vũ trang ta tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự. Thực hiện nghị quyết Trung ương 14 về cách mạng miền Nam, cùng với mặt trận Khe Sanh, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã diễn ra trên khắp miền Nam, đánh thẳng vào các thành thị lớn như Sài Gòn, Huế... Cuộc tổng tiến công đã giáng một đòn mạnh mẽ vào mưu đồ xâm lược và “uy danh” của Mỹ. Trong thế thất bại về chiến lược, ngày 31-3-1968, L.B.Johnson tuyên bố với nhân dân Mỹ rằng sẵn sàng “mở các cuộc hoà đàm ngay lập tức” và “sẵn sàng gửi đại diện đến bất cứ một diễn đàn nào, bất cứ lúc nào, để thảo luận về những biện pháp chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc này”. Theo ông ta: “Không cần trì hoãn các cuộc thương thuyết có thể đưa đến việc chấm dứt các cuộc chiến tranh dai dẳng và đẫm máu này”. Tuyên bố đó của L.B.Johnson có ba nội dung cơ bản: 1. Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; 2. Không tranh cử nhiệm kỳ hai; và 3. Nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cùng với việc thừa nhận “đang tìm cách xuống thang chiến tranh”, về điểm thứ nhất. Có thể coi đây là sự thể hiện những thay đổi mang tính chiến lược trong chính sách của Mỹ về vấn đề Việt Nam. Mỹ đã chấp nhận xuống thang chiến tranh, đồng ý thương lượng để thăm dò và tìm kiếm một giải pháp chính trị. 

Ngày 13-5-1968, Hội nghị song phương giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ chính thức họp phiên đầu tiên tại Trung tâm hội nghị quốc tế trên đường Kléber, thủ đô Paris của nước Pháp (Ảnh trên). Ngày 21-10-1968, đoàn đại biểu Chính phủ ta chính thức đưa ra một thông báo cho phía Mỹ yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom và các hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tổ chức một Hội nghị bốn bênđể tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Mỹ chấp thuận đề nghị đó. Sự hiện diện của Đoàn đàm phán Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam với tư cách là một thực thể chính trị hợp pháp, chính thức không chỉ nâng cao vị thế của Mặt trận, góp phần làm cho thế giới hiểu thêm cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta mà còn tăng cường sức mạnh cho thế trận quân sự, chính trị, ngoại giao phối hợp giữa hai miền Nam - Bắc. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.

2. Hội nghị Paris: Cam kết - Phi cam kết

Ngày 6-11-1968, Richard Nixon, ứng cử viên Đảng Cộng hoà trúng cử Tổng thống Mỹ với số phiếu 43,3% trong điều kiện Mỹ đang bị sa lầy ở Việt Nam, lợi ích chính trị và vị thế kinh tế của Mỹ trên thế giới bị suy giảm nghiêm trọng. Cũng như tổng thống tiền nhiệm, R.Nixon đã sớm nhận thấy sự bế tắc và thất vọng về cuộc chiến đang theo đuổi ở Việt Nam nhưng vẫn không dễ dàng thừa nhận thất bại. Sau Tết Mậu Thân, R.Nixon càng tin rằng cuộc chiến khó có thể giành “thắng lợi” nếu chỉ dùng vũ lực. Sau khi trở thành tổng thống, người đứng đầu Nhà trắng đã đưa ra “Học thuyết Nixon” tại đảo Guam ngày 25-7-1969. Trong thế thất bại trên chiến trường và sớm muộn phải rút quân về nước, “Học thuyết Nixon” dựa trên ba nguyên tắc: Sức mạnh của MỹChia sẻ trách nhiệmvà Thương lượng trên thế mạnh. Đồng thời, trên bình diện quốc tế, Mỹ tìm cách “cải thiện” quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc hòng tìm một giải pháp chính trị có lợi nhất về “Vấn đề Việt Nam”, cắt giảm viện trợ cho Việt Nam mặt khác tranh thủ các nước này tác động đến cuộc đàm phán Việt - Mỹ ở Paris.

Một trong những cuộc họp riêng cuối cùng giữa cố vấn Henry Kissinger và cố vấn Lê Đức Thọ vào tháng 1/1973 tại Saint Nom la Breteche, Pháp

Trên mặt trận ngoại giao, ngày 8-5-1969, đoàn đại biểu MTDTGPMNVN đã đưa ra một giải pháp toàn bộ 10 điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam. Tại phiên họp lần thứ 21 diễn ra vào ngày 12-6-1969, lần đầu tiên đoàn miền Nam tham dự với danh nghĩa Đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Nhằm thực hiện chính sách thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, trong thời gian đầu đàm phán, phía Mỹ luôn tìm cách lẩn tránh việc bàn về sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn, mặc dù về phía ta, luôn kiên quyết duy trì quan điểm, thể chế này cần phải bị loại bỏ. Đến tháng 10-1972, với phương châmthắng từng bước, chúng ta đã đi đến một quyết sách mạnh bạo, mềm dẻo “không đòi loại bỏ chính quyền Thiệu mà giữ nguyên trạng hai chính quyền, chỉ thỏa thuận một số nguyên tắc lớn như hai bên miền Nam sẽ hiệp thương để giải quyết vấn đề nội bộ miền Nam, lập một cơ cấu chính quyền để đôn đốc và giám sát thi hành hiệp định và tổ chức tổng tuyển cử. 

Để cứu vãn tình thế trên chiến trường miền Nam, R.Nixon đã huy động trở lại lực lượng quân sự Mỹ, gây lại chiến tranh phá hoại miền Bắc, thả thuỷ lôi phong toả cảng Hải Phòng và các cảng quan trọng khác hòng ngăn chặn đường tiếp vận của ta. Tháng 9-1972, trên cơ sở đánh giá tình hình trong nước và quốc tế, Bộ Chính trị Đảng ta chủ trương tranh thủ đạt được giải pháp ngoại giao trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Ngày 4-10-1972, Bộ Chính trị đã điện cho đoàn tại Paris tạm gác một số yêu cầu khác về nội bộ miền Nam để sớm nhanh chóng chấm dứt chiến tranh. Nếu chấm dứt được sự dính líu quân sự của Mỹ ở miền Nam thì trong đấu tranh với chính quyền Sài Gòn sau này, ta có điều kiện để giành các mục tiêu đó và có thể đạt được thắng lợi lớn hơn.

Quán triệt tinh thần nêu trên, phối hợp chặt chẽ với phái đoàn đàm phán, từ trong nước chúng ta đã khẩn trương chuẩn bị bản Dự thảo hiệp định. Ngày 8-10-1972, thay mặt Chính phủ ta, cố vấn Lê Đức Thọ trao cho H.Kissinger bản Dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong các phiên họp riêng, một chiến dịch đấu tranh ngoại giao quyết liệt lại diễn ra trên từng nội dung, điều khoản của hiệp định. Cuối tháng 10, bản hiệp định đã được chuẩn bị hoàn tất và hai bên thoả thuận sẽ ký vào ngày 31-10-1972 trước khi bầu cử tổng thống Mỹ. Lo ngại sự chống đối của chính quyền Sài Gòn có thể làm chậm thậm chí phá vỡ “kế hoạch hoà bình”, ngày 19 đến 23-10-1972, theo yêu cầu của R.Nixon, Kissinger đến Sài Gòn và chuyển đến Nguyễn Văn Thiệu bức thư của R.Nixon đề ngày 16-10 với lời cam kết sẽ tiếp tục viện trợ cả tinh thần và vật chất cho chính quyền Thiệu trong chừng mực có thể. Tuy nhiên, tại Sài Gòn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã phản ứng quyết liệt với những những thoả thuận của chính quyền Mỹ và khi biết nội dung bản dự thảo hiệp định đã lập tức đòi sửa chữa 69 điểm. Nhân cơ hội đó, lấy cớ “gặp khó khăn với Thiệu”, phía Mỹ yêu cầu phái đoàn ta “thoả thuận thêm” và đề nghị hoãn ngày ký hiệp định đồng thời cam kết sẽ không yêu cầu thêm bất kỳ sự thay đổi nào sau khi đạt được sự thoả thuận trong đợt gặp này. 

Trước thái độ lật lọng đó, nhằm tranh thủ dư luận quốc tế và tiếp tục đưa cuộc đấu tranh chính trị, ngoại giao lên cao, ngày 27-10-1972, Chính phủ ta tuyên bố công khai tình hình đàm phán ở Paris và thông báo trước công luận về sự thoả thuận mà các bên đã đạt được trong tháng 10. Trước sự đấu tranh kiên quyết của ta và lo sợ sự phản đối mạnh mẽ của dư luận, ngày 26-10-1972, H.Kissinger phải tuyên bố: “Hoà bình trong tầm tay”. Do nuôi dưỡng tham vọng có thể tiếp tục kéo dài hoặc phá vỡ cuộc đàm phán, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sức phản đối nội dung bản hiệp định. Mâu thuẫn giữa Washington và Sài Gòn bùng nổ công khai. Mặc dù được chính quyền Mỹ liên tiếp trấn an nhưng trong nhận thức của mình, trước sau chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn coi đó là một “hiệp định đầu hàng”. Dường như không thể yên tâm với những lời cam kết, ngày 18-11-1972, Thiệu cử đặc phái viên Nguyễn Phú Đức sang gặp R.Nixon để vừa trình bày quan điểm của chính quyền Việt Nam Cộng hoà vừa tìm cách gây áp lực trở lại đối với giới cầm quyền Mỹ. 

Trong bối cảnh đó, cuộc đấu tranh ngoại giao diễn ra hết sức căng thẳng. Để gây sức ép buộc ta nhân nhượng, tại cuộc gặp riêng với cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ ngày 24-11-1972, H.Kissinger đã đưa ra tối hậu thư của R.Nixon: “Trừ phi phía bên kia tỏ ra sẵn sàng chú ý tới sự quan tâm hợp lý của chúng ta, tôi chỉ thị cho ông ngừng đàm phán và chúng ta sẽ phải tiếp tục lại các hoạt động quân sự cho đến khi phía bên kia sẵn sàng đàm phán theo điều kiện có danh dự”. Trước cuộc đấu tranh có nguyên tắc của ta, Mỹ đã đơn phương ngừng đàm phán nhưng không dám bỏ đàm phán mặt khác cũng không thể bác bỏ những đề nghị của Thiệu. Chưa thể dễ dàng gạt bỏ thể chế chính trị miền Nam Việt Nam, R.Nixon - H.Kissinger thực hiện chính sách hai mặt vừa vỗ về, an ủi Thiệu vừa đồng thời thông báo cho Thiệu biết về khả năng phản đối mạnh mẽ của nhiều nghị sĩ trong quốc hội Mỹ về thái độ hiếu chiến, kéo dài chiến tranh của chính quyền Sài Gòn.

Trước những bế tắc về đàm phán, từ ngày 18 đến 29-12-1972, hòng dùng sức mạnh quân sự đè bẹp ý chí của ta, Mỹ đã mở một cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố, khu đông dân cư khác, tàn sát dã man đồng bào ta. R.Nixon toan tính rằng, đối với nội bộ nước Mỹ, cuộc ném bom có thể sẽ xoa dịu phái hữu, ngăn họ cấu kết với Sài Gòn để chống R.Nixon. Cuộc tập kích còn nhằm mục đích vừa trấn an Thiệu về sức mạnh Mỹ, chứng minh sự cam kết của Mỹ để rồi từ đó gây sức ép buộc Thiệu phải sớm ký hiệp định. Nhưng, quân và dân ta đã làm nên một trận “Điện Biên phủ trên không” và buộc Mỹ phải nối lại vòng đàm phán. 

Đến giữa tháng 1-1973, văn bản hiệp định chính thức đã được các bên thoả thuận với nội dung căn bản giống như bản dự thảo hiệp định do Chính phủ VNDCCH đề xuất tháng 10-1972. Nhận thấy nguy cơ bị Mỹ bỏ rơi ngày càng lộ rõ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sức phản đối tiến trình hoà đàm. Trong khi, R.Nixon vẫn tiếp tục sử dụng “con bài truyền thống”, vừa cam kết làm hậu thuẫn mạnh mẽ cho Thiệu vừa đe doạ. Ngày 17-1-1973, trong thư gửi cho Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Mỹ tiếp tục nhấn mạnh 3 vấn đề: Thứ nhất, chỉ thừa nhận chính phủ VNCH là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Việt Nam; thứ hai, không thừa nhận quyền ở lại của quân đội ngoại quốc trên phần đất miền Nam Việt Nam; thứ ba, Hoa Kỳ sẽ có những phản ứng mãnh liệt đối với những vi phạm hiệp định. 

Nhận thấy thái độ do dự của tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, ngày 19-1-1973, R.Nixon lại gửi tiếp cho Thiệu một bức thưvới lời lẽ quyết đoán: “Tôi đã quyết định dứt khoát ký tắt hiệp định ngày 23-1-1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng thế một mình”. Không còn sự lựa chọn nào khác, Nguyễn Văn Thiệu đành phải chấp thuận và chỉ xin đề nghị sửa chữa một số điểm nhỏ. Ngày 20-1-1973, ngày R.Nixon vào Nhà trắng nhiệm kỳ hai, phía Mỹ lại cam kết với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu: “Hoa Kỳ công nhận chính phủ ngài là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam” đồng thời yêu cầu Thiệu chấp thuận với nội dung bản hiệp định và cho biết ý kiến chậm nhất là 12 giờ trưa ngày 21-1-1973. Trên thực tế, có thể coi đó là bản tối hậu thư của chính quyền R.Nixon đối với nguỵ quyền Sài Gòn. Ở Paris, chỉ 2 ngày sau Kissinger đã ký tắt vào văn bản và đúng 4 ngày sau đó, ngày 27-1-1973, chính quyền Sài Gòn cũng phải ký vào bản hiệp định. Như vậy, sau nhiều lần đi ngược lại những lời cam kết, Hoa Kỳ đã phải đi đến sự cam kết cuối cùng, cam kết bằng văn bản về vấn đề kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Đối với chúng ta, mục tiêu chiến lược khi ký Hiệp định Paris đã được thực hiện trọn vẹn. Bởi vì, cùng với việc buộc Hoa Kỳ và các bên liên quan công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thì “điều quan trọng của hiệp định Pa-ri không phải là ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần, mà mấu chốt là ở chỗ quân Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại, hành lang Nam Bắc vẫn nối liền, hậu phương gắn liền với tiền phương thành một dải liên hoàn thống nhất; thế trận tiến công của ta vẫn vững. Ý định của ta là giữ nguyên thế và lực của mình ở miền Nam để tiến lên tiếp tục tiến công địch”. Đó là hai thắng lợi lớn nhất của ngoại giao Việt Nam, trí tuệ Việt Nam trong tiến trình đi đến ký kết Hiệp định Paris.

3. Kết thúc chiến tranh và số phận của chính quyền Sài Gòn  

Trong thời gian kéo dài đàm phán ở Paris, trên chiến trường miền Nam, Mỹ đã chuyển giao cho chính quyền Sài Gòn hầu hết các căn cứ quân sự. Đến năm 1973, tổng số quân chính quyền Sài Gòn đã lên đến 1,1 triệu chiếm tới 50% số thanh niên trong độ tuổi từ 18 đến 35. Lầu Năm Góc cũng không ngừng củng cố sức mạnh của không lực và trọng pháo cho chính quyền Sài Gòn. Số lượng trang bị mà đội quân đó nhận được là một điều bí ẩn vì sau khi Mỹ rút, Mỹ đã để lại một số lượng khổng lồ vật liệu. Theo đuổi chính sách thực dân mới với âm mưu cơ bản là duy trì sự tồn tại chính quyền Sài Gòn và chia cắt lâu dài đất nước ta, Mỹ còn cho đổi tên nhiều cơ quan quân sự thành dân sự mặt khác vẫn duy trì 24.000 cố vấn quân sự và nhân viên dân sự  ở miền Nam.

Thông tin về hội nghị Paris về thiết lập hoà bình ở Việt Nam đã tràn ngập trên các trang nhất của báo chí thế giới

Dù đã hết sức cố gắng cứu vãn sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn, trên thực tế, tình hình chính trị nước Mỹ không cho phép chính quyền G.Ford tiếp tục duy trì mức độ viện trợ cao như trước đó. Từ ngày 2-1-1973, Hạ viện và Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết cắt toàn bộ ngân sách cho bất kỳ hoạt động quân sự nào của Mỹ ở Đông Dương trừ khoản ngân sách hạn chế cho việc rút quân và hồi hương tù binh. Trong báo cáo của Bộ tổng tham mưu chính quyền Sài Gòn gửi Nguyễn Văn Thiệu năm 1975 cũng chỉ rõ “tầm quan trọng sống còn” của viện trợ Mỹ: “Nếu Mỹ viện trợ 1,4 tỷ đô la, Sài Gòn sẽ kiểm soát được toàn miền Nam; 1,1 tỷ đô la, Sài Gòn sẽ mất một nửa quân khu I về phía Bắc; nếu chỉ 900 triệu đô la sẽ mất toàn bộ quân khu I và quân khu II; nếu chỉ còn 600 triệu đô la thì chỉ kiểm soát một nửa quân khu III từ Biên Hoà tới quân khu IV”. Trên thực tế, viện trợ của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn giảm từ 2,27 tỷ USD năm 1973 xuống 1,03 tỷ USD năm 1974 và 1,45 tỷ USD năm 1975.

Song song với cuộc đấu tranh ngoại giao, để ngăn chặn Mỹ và chính quyền Sài Gòn luôn vi phạm những điều khoản đã ký kết trong Hiệp định, các lực lượng vũ trang ta đã nắm vững thế chiến lược tiến công, đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của quân đội Sài Gòn. Tháng 7-1973, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết XXI, tiếp tục khẳng định con đường bạo lực cách mạng, chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho khả năng tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam. Từ thực tế chiến trường và phân tích tình hình chính trị quốc tế, nhận thấy một số nước có tham vọng can thiệp vào vấn đề Việt Nam chưa thể thực hiện ngay những biện pháp cụ thể và Mỹ khó có khả năng đưa quân quay trở lại Việt Nam, ngày 30-9 đến 8-10-1974 Bộ Chính trị họp bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. Sau cuộc họp đợt hai từ 8-12-1974 đến 8-1-1975 Bộ Chính trị đã đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976 để rồi sau những thắng lợi dồn dập, nắm bắt Thời cơ chiến lược mới, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lại đưa ra quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưanăm 1975.

Ngày 6-1-1975, tỉnh Phước Long được giải phóng. Sau Phước Long, chiến dịch Tây Nguyên mà trận thắng mở đầu mang ý nghĩa quyết định là Buôn Ma Thuột ngày 11-3 đã mở ra một thế cuộc mới cho cách mạng nước ta. Ngày 21-3, ta mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Ngày 25-3-1975, Thiệu đã viết một bức thư dài gửi G.Ford với lời lẽ hết sức khẩn thiết. Tổng thống G. Ford ở thời điểm ấy đã không có bất kỳ phản hồi nào. Bốn ngày sau Đà Nẵng, liên hợp quân sự lớn nhất miền Trung của nguỵ quyền Sài Gòn, thất thủ. Đường tiến về Sài Gòn của đại quân ta đã rộng mở. Ngày 16-4, G.Ford ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Sài Gòn đồng thời gửi thư thượng khẩn cho Leonid Brezhnev đề nghị Ban lãnh đạo Liên Xô vận động Việt Nam để người Mỹ thực hiện chiến dịch di tản ra khỏi miền Nam Việt Nam. Số phận của chính quyền Sài Gòn chỉ còn tính được từng ngày. Hai ngày sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, nhận thấy vận mạng chính trị của chính quyền miền Nam Việt Nam là không thể cứu vãn, ngày 23-4-1975, tại Trường Đại học New Orleans, Tổng thống Mỹ Gerald Ford phải thừa nhận trong sự tuyệt vọng: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt đối với Mỹ. Mỹ không thể giúp người Việt Nam được nữa, họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang đợi họ”.

Bức ảnh mang tính biểu tượng về ngày 30/4/1975

Và ngày 30-4-1975, khi các quân đoàn chủ lực của ta tiến về giải phóng Sài Gòn, vì “danh dự” và những lợi ích của nước Mỹ, giới cầm quyền Washington đã bỏ rơi chính quyền Sài Gòn như họ đã từng bỏ rơi chính quyền Lon Non ngày 17-4-1975. Kết quả cuối cùng là, trước quyết tâm sắt đá “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của dân tộc ta; do biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nắm bắt đúng thời cơ cách mạng, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, kết thúc chiến tranh đúng lúc..., quân và dân ta đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, làm sụp đổ chính quyền tay sai thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, giải phóng miền Nam - thống nhất nước nhà. 

 GS.TS. Nguyễn Văn Kim, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG HN - VNU Media